Số phận kho báu của triều Nguyễn (P1)

Lịch sử hình thành và phát triển của một quốc gia gắn liền với những cuộc tương tranh liên miên với các quốc gia khác, thậm chí cả trong nội bộ một quốc gia

Lịch sử hình thành và phát triển của một quốc gia gắn liền với những cuộc tương tranh liên miên với các quốc gia khác, thậm chí cả trong nội bộ một quốc gia. Thông thường, trong cuộc chiến, bên nào thắng cũng cướp phá, tịch thu một phần hay toàn bộ kho tàng của bên bại trận. Kho báu chính là chiến lợi phẩm bậc nhất của các xã hội phong kiến ngày xưa. Thời nhà Lý, năm 1044, vua Lý Thái Tông (1000-1054) nhiều lần mang quân đi đánh nước Chiêm Thành ở phía Nam, đưa về nước hàng ngàn tù binh và nhiều vàng bạc, châu báu (Đại Việt sử ký toàn thư). Thời Trần, năm 1371, quân Chiêm Thành sang đánh nước ta, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái, ngọc lụa đem về, vua Trần Nghệ Tông phải đi thuyền lánh giặc.

Tám năm sau (1379), để đề phòng quân Chiêm lại tấn công và cướp phá kho báu, nhà Trần sai quân dân chở tiền Đồng vào giấu ở núi Thiên kiện và một tầng tháp ở Lạng Sơn. Một trong những cuộc đánh chiếm kho báu lớn nhất đã diễn ra dưới đời vua Lê Thánh Tông (1441-1497). Năm 1471, nhà vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, tấn công vào thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn và niêm phong toàn bộ của cải và kho tàng. Dưới thời các chúa Nguyễn, khi cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn kéo dài hơn 30 năm (1771-1802), ba anh em Tây Sơn đã lấy kinh đô cũ của Chiêm Thành là Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn, nay thuộc tỉnh Bình Định) làm bản doanh của phong trào và không ít của báu của người Chiêm đã rơi vào tay họ.

Một người Pháp duy nhất có mặt trong lãnh địa dưới quyền kiểm soát của nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian giữa những năm 1770 và 1886 là giáo sĩ Jean Pierre Joseph d’Arcet có kể lại trong một lá thư rằng trong một lần rút quân từ Đồng Nai về cứ địa Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc ghé lại chỗ ở của một vị tiểu vương Chiêm Thành, đòi xem những của báu của vương quốc này. Trong những đồ trân quý ông ta được xem, có một cây quyền trượng bằng vàng, chạm trỗ tinh vi, với hình 14 chiếc sừng, tượng trưng cho 14 thế hệ đã nắm quyền cai trị kể từ ngày vương quốc này được thành lập. Ông ta giữ lấy cây quyền trượng và nói với vị tiểu vương Chiêm Thành mới chừng 10-12 tuổi mà ông coi như một người con:

Các thỏi vàng và tiền trong kho báu triều Nguyễn - Ảnh F. Thierry.

“Ta sẽ trả nó lại cho con”. Tất nhiên, của báu chẳng bao giờ được hoàn lại khổ chủ và vị tiểu vương kia phải ngậm đắng nuốt cay gật đầu ưng thuận, vì dù sao, mạng sống của ông ta cũng quý hơn cây quyền trượng (George Dutton -The Tây Sơn uprising” Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn - bản dịch của Lê Nguyễn – NXB Tổng hợp TPHCM – 2019, trang 182-183),. Dutton cũng ghi nhận rằng trong khoảng thời gian kể trên, nhà Tây Sơn đã tịch thu nhiều trang phục cùng biểu chương của các triều đại Chiêm Thành và những bảo vật đó đã góp phần vào việc long trọng hóa sinh hoạt cung đình và các nghi thức của nhà Tây Sơn.

Sang thời Nguyễn, sau khi thống nhất sơn hà vào năm 1802, người khai sáng triều Nguyễn là vua Gia Long (1762-1820) đã chấn chỉnh việc đúc tiền và các quý kim (vàng, bạc …). Việc đúc tiền được giao cho một cơ quan có tên là Bảo tuyền cục, việc quản lý vàng thuộc độc quyền của Nội vụ phủ, đặt dưới sự kiểm soát của Nội các gồm thành viên là người trong hoàng tộc và quan chức ở bộ Hộ. Riêng việc đúc bạc được giao cho các xướng đúc tại các trấn (sau là tỉnh). Khối lượng vàng bạc đúc ra vào nửa đầu thế kỷ XIX là một phần không nhỏ trong kho báu triều Nguyễn là chủ đề chính của loạt bài này.

Vào thập niên 1860, cùng với việc đánh chiếm Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp phát triển kinh tế khu vực phía Nam Việt Nam và bắt đầu dòm ngó khối của cải do triều đình Huế nắm giữ. Tháng 1.1885, Thống đốc dân sự đầu tiên của vùng đất Nam kỳ lục tỉnh là Charles le Myre de Vilers đề cập đến một “kho dự trữ bao la” ở Huế, song đã không đưa ra được một số liệu cụ thể nào. Ông ta đánh giá thấp khối lượng vàng do triều đình cất giữ, với trị giá tương đương 2 triệu franc, thay vì 7 triệu franc như nhiều tài liệu sau đó đã ước tính. Trong khi đó, ông ta lại nâng cao quá đáng khối lượng bạc với trị giá 11 triệu franc, thay vì giá trị thực sự của kim loại này chỉ vào khoảng 6,5 triệu franc.

Đồng tiền Song Long thời Thiệu Trị (1841-1847) Ảnh F. Thierry.

Vào thập niên 1880, chưa ai ước lượng được khối lượng vàng bạc mà vua Minh Mạng (1820-1841) đã chôn giấu tại nhiều nơi trong kinh thành, về sau bị người Pháp phát hiện một phần. Hòa ước Giáp Thân 1884, còn được gọi là Hòa ước Patenôtre (tên người ký hòa ước về phía Pháp) tuy về mặt văn từ chia ba miền Nam-Trung-Bắc thành ba thực thể chính trị khác nhau, Nam kỳ là thuộc địa, Bắc kỳ là xứ bảo hộ, Trung kỳ là vùng tự trị của triều đình Huế, song về thực chất, việc thuộc địa hóa toàn thể lãnh thổ Việt Nam đã được Pháp áp dụng từ thập niên 1880, nhất là khi Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer sang Việt Nam vào năm 1897.

Tháng 4.1885, Thống tướng De Courcy sang Hà Nội, nhậm chức Tổng trú sứ Trung và Bắc kỳ. Ở Hà Nội chưa bao lâu, ông ta vào Huế để thực hiện hai việc chính, một là bệ kiến vua Hàm Nghi, trình lá thư thăm hỏi của Tổng thống Pháp (sử Việt Nam gọi là Giám quốc) Jules Grévy và hai là trao cho triều đình Huế bản hòa ước Giáp Thân đã được Nghị viện Pháp chuẩn y. Viên Tổng trú sứ vào đến Thuận An ngày 2.7.1885 và ngay sau đó đã yêu cầu hai vị Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng Cơ Mật viện sang Tòa Khâm sứ để thương nghị với phía Pháp về chương trình bệ kiến vua Hàm Nghi.

Trong lúc nói chuyện với ban tham mưu, De Courcy không giấu diếm ý định nhân cuộc họp này để bắt giữ Tôn Thất Thuyết. Tin đó do một sĩ quan thân cận của ông ta để lọt ra ngoài và tất nhiên đã sớm đến tai vị đệ nhị Phụ chánh. Vì thế, ông Thuyết đã cáo bệnh không đi. Trước phản ứng của Tôn Thất Thuyết, De Courcy bộc lộ ngay bản chất hống hách của một tên thực dân, buộc triều đình phải cho người cáng ông Thuyết qua. Chẳng những thế, viên tướng này còn trịch thượng hơn, buộc triều đình phải để ông ta và tất cả binh lính có vũ trang đi vào cung điện bằng cửa chính Ngọ môn, nơi chỉ dành cho vua đi, quan đại thần nhất phẩm cũng phải đi qua hai cổng phụ.

Tướng De Courcy, ảnh Lucien Huard trong "La Guerre du Tonkin".

Với vị đệ nhị Phụ chánh, hành vi của De Courcy là giọt nước làm tràn ly. Không như người đồng nhiệm trước đây là đệ nhất Phụ chánh Trần Tiễn Thành chủ trương giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp qua điều đình, thương lượng, được liệt vào phe “chủ hòa”, Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp triệt để. Ngay từ tháng 8.1883, ông đã cho xây dựng căn cứ địa Tân Sở ở Quảng Trị, dành làm một “kinh đô” thứ hai khi có biến. Vì thế, ông một mình sắp đặt kế hoạch tấn công vào Tòa Khâm sứ Huế ngay trong đêm 4 rạng 5 tháng 7.1885, trong lúc nơi đây diễn ra buổi tiệc với sự tham dự của tất cả sĩ quan Pháp có mặt tại Huế.

Cuộc tấn công không đạt được thắng lợi như mưu tính, quân Pháp phản công, gây ra một cảnh tượng kinh hoàng tại Huế, quân dân dẫm đạp lên nhau khi bỏ chạy khỏi kinh thành. Theo báo cáo của tướng De Courcy cho chính phủ Pháp ngay trong ngày 5.7.1885, số người tử thương về phía Việt Nam, cả quân lẫn dân, nằm trong khoảng 1.200 đến 1.500 người; phía Pháp chỉ có 24 người tử trận, trong đó có 4 sĩ quan, và hơn 50 người bị thương cả nặng lẫn nhẹ. Tuy nhiên, hậu quả lâu dài của việc này lại không nhẹ cho phía Pháp chút nào. Theo một bài viết của cây bút A. Delvaux đăng trong Tập san Đô thành Hiếu cổ (BAVH) số 2 năm 1920, vì không được thu dọn, hàng ngàn tử thi bị phân hủy, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề và hậu quả là chỉ trong hai tháng, đã có 700 trong số 3.500 lính Pháp bị bệnh dịch tả!

Ngày 7.7.1885, tướng De Courcy gửi một điện tín về cho chính phủ Pháp ở Paris, báo tin về việc quân Pháp đã làm chủ tình hình hoàn toàn, không quên nhắc tới một khối lượng của cải khổng lồ trong hoàng thành, riêng về các nén bạc đã trị giá khoảng 5 triệu franc, nếu tìm thấy vàng nữa thì trị giá bằng tiền sẽ cao hơn rất nhiều. Trong điện tín, ông ta cũng báo cáo về tính kỷ luật của tiểu đoàn lính Algérie dưới quyền ông ta (François Thierry – Le trésor de Hue – NXB Nouveau Monde 2014, trang 111-112). Song, báo cáo về tính kỷ luật của lính Pháp đã bị phủ nhận bởi sự rối loạn trong cung điện lúc bấy giờ.

Phó sứ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) trong thời gian ở Sài Gòn chờ ký hòa ước Giáp Tuất 1874 - Ảnh Emile Gsell.

Tại hoàng thành, họ tha hồ cướp bóc, nhét đầy túi những nén bạc là loại tiền tệ trị giá 12 đồng (60 franc) rồi mang đi bán lấy 4 hay 5 đồng! Tất nhiên, họ cướp bóc không chỉ có thế. Nhiều bảo vật bằng vàng cũng lọt vào tay họ. Bản thân De Courcy lấy được một thanh kiếm báu, về sau tặng cho Bộ trưởng bộ Chiến tranh Pháp là tướng Campenon và ông này cho lại Bảo tàng quân đội Pháp (chiếc bao kiếm bị lấy cắp vào năm 1913). Sau ngày 5.7.1885, triều đình lập bảng kê những thất thoát của kho báu tại hoàng thành (về sau các viên chức Pháp có báo về chính quốc), trong đó số bảo vật bị lấy cắp riêng trong cung bà Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu gồm: 228 viên kim cương, 266 đồ trang sức có đính kim cương và đá quý, 271 đồ vật bằng vàng, một chiếc đĩa bằng vàng khối rộng khoảng 50-60 cm, trên còn thức ăn thừa ….

Nguồn: Lê Nguyễn

Bài viết liên quan

Cùng danh mục

 
Tư vấn ngay