Số phận kho báu của triều Nguyễn (P2)

Không như người đồng nhiệm trước đây là đệ nhất Phụ chánh Trần Tiễn Thành bị liệt vào phe “chủ hòa” vì chủ trương giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp qua điều đình

Không như người đồng nhiệm trước đây là đệ nhất Phụ chánh Trần Tiễn Thành bị liệt vào phe “chủ hòa” vì chủ trương giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp qua điều đình, thương lượng,Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp triệt để. Ngay từ tháng 8.1883, ông đã cho xây dựng căn cứ địa Tân Sở ở Quảng Trị, dành làm một “kinh đô” thứ hai khi có biến. Ngay trong ngày thất thủ kinh đô 5.7.1885, trên đường di tản lên phía Bắc, Phụ chánh Nguyễn Văn Tường đã quay về Huế để hợp tác với Pháp nhằm chấn chỉnh việc triều chính. Ông báo cho Khâm sứ Huế Palasne de Champeaux biết rằng, vào đầu tháng 6.1885, Tôn Thất Thuyết đã cho chuyển đến Tân Sở một khối lượng của cải kếch sù là 300 ngàn nén bạc chứa trong gần 600 rương.

Mấy hôm trước ngày 5.7, ông Thuyết định đưa tiếp lên Tân Sở khối lượng bạc còn lại, khoảng 650 đến 700 ngàn nén, song do có sự ngăn trở của ông Tường mà việc này chưa xảy ra trên thực tế (theo văn khố của Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế). Những gì Nguyễn Văn Tường kể với de Champeaux không bao gồm vàng, tiền hay các quí kim khác. Tuy nhiên, theo một điện tín do tướng de Courcy gửi về Paris, ước lượng số vàng và bạc trong kho báu triều Nguyễn trị giá khoảng 9 triệu franc Pháp. Về sau, theo một tài liệu do Nha Tiền tệ Pháp công bố, khối lượng vàng do Pháp tịch thu được lên đến hơn 10 ngàn thỏi với nhiều kích thước khác nhau.

Trở lại ngày binh biến 5.7.1885, biết không lật ngược được tình thế, Tôn Thất Thuyết thu xếp đưa vua Hàm Nghi mới 14 tuổi cùng nhiều quan binh rời khỏi cung điện vào khoảng 7 giờ 30 sáng. Ngoài mấy trăm binh lính hộ vệ, theo đoàn xa giá còn có nhiều dân phu khiêng vác các rương vàng bạc và các thứ của cải khác. Sau một thời gian ngắn dừng chân tại Tân Sở, Tôn Thất Thuyết nhận thấy nơi đây không thể là một căn cứ kháng chiến lâu dài, quyết định đưa vua Hàm Nghi ra Bắc. Tuy nhiên, lộ trình ra Bắc bị quân Pháp án ngữ, đoàn xa giá dự định theo ngả Lào, rồi cuối cùng vẫn phải quay lại Hà Tĩnh và Quảng Bình.

Chính vì sự bất ổn trong hành trình di tản để tìm ra một kế sách lâu dài mà một phần kho báu triều Nguyễn đã bị rơi rớt trên đường, để rồi vào những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến gian khổ, vua Hàm Nghi và các nhóm nghĩa quân hoạt động quanh ông vẫn phải sống trong sự cùng cực. Theo các tài liệu do người Pháp ghi lại, với độ chênh nhất định giữa các số liệu về khối lượng kho báu (vàng, bạc, tiền…), ngày 19.7.1885, khi quyết định đi ra phía Bắc qua ngả Thanh Hóa, Tôn Thất Thuyết chỉ mang theo mấy rương vàng, giao 140 rương bạc cho Võ Trọng Bình, nguyên Tổng đốc Nam Định đã trí sĩ, đang cư ngụ ở Quảng Bình.

Ông này chuyển 83 rương bạc cùng một khối lượng vàng ròng cho các quan tỉnh đương nhiệm ở Đồng Hới, để rồi sau đó, các ông này giao nộp lại cho người Pháp. Ngày 24.7.1885, một quan chức Pháp là Jules Silvestre được Tuần vũ Quảng Bình báo cho biết là trong địa hạt của ông còn có 30 rương bạc ở Vạn Xuân, mỗi rương chứa 50 thỏi bạc, giá mỗi thỏi tương đương 81,57 franc, 50 rương bạc ở nhà Võ Trọng Bình, và 50 rương vàng ở nhà một viên quan khác tên Lê Mô Khai. Khối lượng vàng bạc do Pháp thu hồi được tại Quảng Bình từ tay Võ Trọng Bình, các viên chức xã Vạn Xuân và từ một số quan chức khác, đã không được các cây bút Pháp như Jules Silvestre, Charles Gosselin, Paulin Vial ghi chép như nhau.

Song căn cứ vào một bức điện do tướng De Courcy gửi về Paris thì trị giá khối lượng của cải do Tôn Thất Thuyết mang theo và Pháp thu hồi được tại Đồng Hới (Quảng Bình) là 1 triệu franc, tại Quảng Trị là 250 ngàn franc. Sau hành trình gian khổ sang đất Lào rồi quay về Hà Tĩnh, Quảng Bình, đến tháng 1.1886, đoàn xa giá của vua Hàm Nghi chỉ còn mang theo mấy rương bạc. Qua tháng 2.1886, sau một cuộc đụng độ lớn giữa binh sĩ hai bên, Tôn Thất Thuyết rời vua Hàm Nghi, tìm đường sang Tàu để cầu viện, để hai con trai là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp ở lại bảo vệ nhà vua. Do đã ký hòa ước Thiên Tân năm 1885 với Pháp, người Tàu không giúp được gì cho cuộc kháng chiến tại Việt Nam, Tôn Thất Thuyết kéo dài những tháng ngày bất đắc chí trên đất khách và qua đời năm 1913.

Trước ngày bị Pháp bắt vào ngày 2. 11.1888, vua Hàm Nghi không còn bên cạnh một của cải gì. Song cho đến nay, kho báu của triều đình Huế còn rơi rớt lại trong cư dân ở Quảng Bình, Hà Tĩnh hay chôn giấu đâu đó chưa tìm ra hết vẫn còn là đề tài sôi động của các phương tiện truyền thông. Ở biến động ngày 5.7.1885, trong mấy trăm người đi theo đoàn xa giá rời bỏ kinh thành Huế, Phụ chánh Nguyễn Văn Tường là một trong những người quay lại sớm nhất, chiều hôm ấy, ông đã có mặt ở Huế. Ngay sau đó, Tông nhơn phủ (Hội đồng hoàng tộc) đã hội họp tại Tòa Khâm sứ, tất nhiên là dưới sự dẫn dắt của tướng De Courcy, để chọn ra một phủ Phụ chánh lâm thời do Thọ Xuân vương Miên Định làm chủ tịch.

Người ta cũng thành lập một Cơ mật viện do Nguyễn Văn Tường làm chủ tịch gồm những Thượng thư cũ không có tinh thần chống Pháp. Tất nhiên trong những ngày này, kho báu triều Nguyễn còn lại tại kinh thành và việc thu hồi số của cải trên đường di tản của vua Hàm Nghi là những vấn đề trọng yếu nhất đối với De Courcy. Bước đầu, ông ta tìm thấy 76.212 thỏi bạc, mỗi thỏi (nén) nặng 10 lạng, tức nặng khoảng 30 tấn; trên 10 ngàn nén vàng và 4 ngàn tiền đồng, phù hiệu các loại. Chỉ 3 ngày sau khi vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành Huế, tức ngày 8.7.1885, viên tướng này đã liên lạc với Bộ Chiến tranh ở Paris, báo cáo tình hình kho báu triều Nguyễn với một khối lượng vàng, bạc khổng lồ.

Ông ta đề nghị dành một phần kho báu này để trang trải chi phí tổ chức “đạo quân người bản xứ” và bày tỏ ý kiến là chính quốc cần cử sang Việt Nam những người có thẩm quyền giải quyết vấn đề của cải cùng các tài sản có tính nghệ thuật. Trong lúc chờ đợi một giải pháp dứt khoát về kho báu triều Nguyễn, De Courcy vẫn giữ quyền quản lý số tài sản kếch xù đó. Ngày 19.9.1885, nhân lễ tấn tôn của ông hoàng Chánh Mông với niên hiệu Đồng Khánh, viên tướng này ban thưởng cho mỗi sĩ quan và binh lính Pháp một đồng tiền vàng to lấy từ trong cung điện. Đối với những vật dụng có tính nghệ thuật mà người Pháp lúc đó gọi là “trésors artistiques” (bảo vật nghệ thuật), ông ta cho trả lại tân vương Đồng Khánh.

Trong số những bảo vật được trao trả công khai, có các ấn bằng vàng và ngọc bích của các vua đời trước, các kim sách (sách vàng) của triều đình. Việc làm này được ông ta thông báo trước với Bộ Chiến tranh ở Paris qua một điện tín gửi đi ngày 14.9.1885. Không lâu sau, bỗng nhiên vấn đề kho báu triều Nguyễn trở thành mối quan tâm đặc biệt của ba bộ trong chính phủ Pháp cùng một lúc. Đó là Bộ Hải quân và Thuộc địa, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chánh. Sau những cuộc thảo luận và tranh cãi kéo dài, cuối cùng vào tháng 1.1886, ba bộ trên đạt đến một thỏa thuận chung như sau: - Giao trả lại cho tân quân Đồng Khánh phân nửa kho báu (việc này được Tổng trú sứ Paul Bert thực hiện vào tháng 5.1886)

Phân nửa còn lại được dành bồi hoàn cho công khố Pháp đã ứng trước để tiến hành các hoạt động quân sự và đài thọ các chi phí quản lý cho bộ máy bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ. Sự thỏa thuận đạt được từ tháng 1.1886, song phải chờ đến mấy tháng sau mới được thực hiện. Tháng 7.1886, phân nửa kho báu triều Nguyễn được chuyển từ Huế vào Sài Gòn, rồi từ đây được đưa xuống tàu đi Marseille trong 206 rương niêm phong cẩn thận. Ngày 6.10 1886, chúng được đưa tới ga Marseille rồi cho lên 4 toa tàu hỏa được niêm chì cẩn thận. Nha Tiền tệ thuộc bộ Tài chánh ở Paris được thông báo về chuyện này và các viên chức của Nha túc trực sẵn ở ga để gỡ niêm phong và cân các rương vàng bạc.

Trước tiên, họ lập biên bản về 192 rương có đánh dấu. Về bạc, họ lập biên bản ghi nhận 38.106 thỏi, với trọng lượng chung 14.631 kg, mất 27 thỏi so với danh sách ban đầu. Họ cũng xác định có một số lượng khá nhiều thỏi bạc có lẫn cát, do kỹ thuật đúc tạo nên. Việc tiếp theo của các viên chức Nha Tiền tệ là lập biên bản đối với 14 rương của cải có ghi dấu O, là chữ tắt của OR (vàng). Các rương này chứa 7.635 thỏi vàng và tiền, với trọng lượng chung hơn 1.335 kg. Ngày 19.10.1886, các viên chức này lập biên bản chính thức trình cho Giám đốc Nha Tiền tệ Jean-Louis Ruau. Ruau nhanh chóng nhận ra rằng khối lượng của cải mà ông ta quản lý không chỉ là vàng, bạc, tiền đồng, mà còn là những sản phẩm có giá trị lịch sử.

Ông ta đòi hỏi phải có một người rành chữ Hán, hoặc ít nhất biết đọc những chữ khắc trên các thỏi vàng và bạc để giúp làm sáng tỏ hơn số tài sản mà cơ quan của ông ta có trách nhiệm quản lý. Ngày 2.11.1886, Bộ trưởng Tài chánh Sadi Carnot (ông này sau làm Tổng thống Pháp) thông báo cho Ruau biết là ông ta đã mời được một chuyên gia có tên Gabriel Devéria để đọc các chữ khắc trên các thỏi vàng, bạc và tiền tệ lưu hành tại Việt Nam.

Nguồn: Lê Nguyễn

Bài viết liên quan

Cùng danh mục

 
Tư vấn ngay